Sám Quy Mạng
Đây vốn là bài văn phát nguyện của thiền sư Liễu Nhiên ở núi Di (怡山然禪師) được biên tập trong sách Truy Môn Cảnh Huấn, Đại Chánh Tạng, quyển 48, trang 1072. Bài phát nguyện này ảnh hưởng sâu rộng trong truyền thống Phật giáo Đại Thừa Đông Á, và được đưa vào công khóa để tụng niệm sáng chiều trong chốn thiền môn. Đây không những nhờ vào ý nghĩa sâu sắc của bài văn mà còn nhờ vào giọng văn lúc tha thiết, khi hùng tráng … qua nhịp câu ngắn gọn, dứt khoát đi thẳng vào trái tim của người tụng đọc. Vì vậy, khi dịch sang Việt ngữ, dịch giả cố gắng giữ nguyên nhịp câu bên chữ Hán cũng như đối ngẫu trong câu chữ hầu bảo tồn cái hồn của tác phẩm.
Quy mạng Điều Ngự trong mười phương
Pháp mầu thanh tịnh khéo tuyên dương
Thánh Tăng bốn quả, ba thừa Pháp [1]
Xin dũ lòng từ, nguyện xót thương.
Đệ tử chúng con,
Tự xa chân tánh,
Uổng đọa dòng mê
Theo sinh tử mãi thăng trầm
Tham sắc thanh luôn ô nhiễm.
Mười triền[2] mười sử[3]
Kết thành hữu lậu nghiệp nhân;
Sáu căn[4] sáu trần[5]
Lầm tạo biết bao tội lỗi.
Đắm chìm biển khổ
Lạc bước đường tà
Chấp ngã, chấp nhân
Sai lầm điên đảo.
Nhiều đời nghiệp chướng
Tất cả tội khiên
Nguyện Tam Bảo đức từ bi
Chứng lòng thành con sám hối. (C)
Kính nguyện:
Thế Tôn cứu độ
Bạn tốt dắt dìu
Ra khỏi phiền não sông mê
Bước lên Bồ-đề bến giác.
Hiện đời bình an phước lạc
Sở nguyện tựu thành;
Kiếp sau mầm giác đơm hoa
Bồ-đề kết quả.
Sinh nơi Phật Pháp
Sớm gặp minh sư
Chánh tín xuất gia
Tuổi thơ vào Đạo.
Sáu căn thông lợi
Ba nghiệp[6] sạch trong
Chẳng nhiễm duyên đời
Thường tu phạm hạnh.
Nghiêm trì giới cấm
Chẳng vướng nghiệp trần
Vững chãi oai nghi
Không hại sinh vật.
Không gặp tám nạn[7]
Chẳng thiếu bốn duyên[8]
Bát-nhã trí được hiện tiền
Bồ-đề tâm luôn bất thoái.
Tu tập Chánh Pháp
Liễu ngộ Đại Thừa
Hành môn sáu độ[9] lợi sinh
Vượt biển ba kỳ[10] thành Phật.
Dựng cờ Chánh Pháp nơi nơi
Phá lưới nghi ngờ lớp lớp
Hàng phục chúng ma
Nối dòng Tam Bảo.
Phụng sự mười phương chư Phật
Chẳng nệ nhọc nhằn,
Tu tập tất cả pháp môn
Thảy đều thông đạt.
Rộng tu phước tuệ
Lợi lạc quần sinh,
Chứng được sáu loại thần thông
Chỉ trong một đời thành Phật.
Sau đó,
Không bỏ pháp giới
Vào chốn trần lao
Từ bi đồng với Quán Âm
Hạnh nguyện rộng như Phổ Hiền.
Phương đây phương khác
Tùy thuận muôn loài
Ứng hiện sắc thân
Tùy cơ thuyết Pháp.
Trong đường địa ngục
Ngạ quỷ khổ đau
Hoặc phóng ánh quang minh
Hoặc hiện các thần biến
Nếu ai thấy thân con
Cho đến nghe được tên
Đều phát Bồ-đề tâm
Thoát hẵn luân hồi khổ.
Nơi có lò lửa sông băng
Thành rừng chiên-đàn.
Kẻ nuốt nước đồng hoàn sắt
Hóa sinh Tịnh Độ.
Mang lông đội sừng
Thiếu nợ hàm oan
Hết nỗi tân toan
Thảy đều lợi lạc.
Trong đời dịch bệnh
Hiện thành cây thuốc
Cứu bệnh trầm kha,
Lúc đói mất mùa
Hóa ra lúa gạo
Giúp người nghèo đói;
Chỉ cần lợi ích
Thệ chẳng từ nan.
Lại nguyện:
Oán thân nhiều kiếp
Quyến thuộc hiện tiền
Hết đắm chìm trong bốn loại
Dứt ân ái buộc nhiều đời
Cùng với chúng sanh
Đồng thành Phật đạo.
Hư không có hạn
Nguyện con không cùng
[Hư không có hạn
Nguyện con không cùng]
Hữu tình vô tình
Đồng nên Phật trí.
-----------------------------------------------------
[1] Ba thừa Pháp: Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ tát thừa.
[2] Mười triền: Mười loại tâm lý trói buộc chúng ta trong vòng sinh tử. 1. vô tàm (không biết hổ với mình) 2. vô quý (không biết thẹn với người) 3. tật (ghen ghét) 4. xan (keo kiệt) 5. hối (hối tiếc) 6. thùy miên (tham ngủ nghỉ) 7. điệu cử ( tâm loạn động) 8. hôn trầm (tâm hôn ám dã dượi) 9. phẫn (giận hờn) 10. phú (che dấu lầm lỗi của mình).
[3] Mười sử: mười loại tâm lý sai khiến mình tạo nghiệp thọ khổ. 1. tham, 2. sân, 3. si, 4. mạn, 5. nghi, 6. thân kiến, 7. biên kiến, 8. kiến thủ, 9. giới cấm thủ, 10. tà kiến.
[4] Sáu căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
[5] Sáu trần: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
[6] Ba nghiệp: Thân, miệng, ý.
[7] Tám nạn: Tám chướng nạn khiến chúng sinh khó tu học Phật pháp. 1. Địa ngục, 2. Ngạ quỷ, 3. Súc sinh, 4. cõi trời Trường Thọ, 5. Biên địa, nơi không có Phật pháp, 6. Thế trí biện thông, giỏi biện luận thế gian nhưng không tin pháp xuất thế, 7. Đui điếc câm ngọng, 8. Sinh ra trước Phật hay sau Phật.
[8] Bốn duyên: Bốn nhân duyên phát tâm Bồ Đề. Theo Kinh Bồ-tát Địa Trì đó là: 1. Thấy đạo lực thần thông không thể nghĩ bàn của chư Phật, Bồ tát nên phát tâm Bồ-đề. 2. Nghe nói đến công hạnh của Bồ tát nên phát tâm Bồ Đề. 3. Thấy đời mạt pháp, chánh pháp suy vi nên phát tâm Bồ Đề. 4. Vì lòng thương xót chúng sinh khổ nên phát tâm Bồ-đề.
[9] Sáu độ tức sáu Ba-la-mật: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ.
[10] Ba kỳ: Ba A-tăng-kỳ kiếp. A-tăng-kỳ có nghĩa vô số. Đây là ước lượng số kiếp lâu xa hành Bồ tát đạo để thành tựu quả Phật viên mãn.